Tìm hiểu bệnh về tim|GIẢI TRÍ VÀ VUI CƯỜI CÙNG SÂM NHUNG

oh

oh

Thứ Tư, 8 tháng 10, 2014

Tìm hiểu bệnh về tim

Tim bơm máu đi khắp cơ thể mang theo chất oxigen và các chất dinh dưỡng.
 
 
 
Các động mạch chuyển máu từ tim đi khắp cơ thể, các tĩnh mạch chuyển máu trở vế tim.
Tim có hai tâm nhĩ (phải và trái) gọi là atrium và hai tâm thất (phải và trái) gọi là ventricular
Khi tiến trình hoạt động của tim bị gián đọan hoặc bị trục trặc thì sẽ gây bệnh tật và có khi dẫn đến tử vong. Những người ăn uống không lành mạnh, hút thuốc hay ít hoạt động dễ bị mắc bệnh tim. Đàn ông có rủi ro cao hơn đàn bà.
Hiện nay đã có nhiều thử nghiệm và liệu pháp như thuốc men, phẫu thuật nối tắt tim, nong tim và ghép tim nên các triệu chứng về bệnh tim đã giảm và nhiều người đã được cứu sống.
 
                         PHẦN I – CÁC BỆNH TIM MẠCH VÀ ĐỘT QUỴ
 
Các cơn đau tim xẩy ra khi dòng máu bị nghẹt thường ra vì cục đông máu        , còn đột quỵ  thì do mạch máu não bị nghẹt hay bị bể. Một loạt những căn bệnh khác như suy tim khi máu đươc bơm không đúng mức hay khuyết tật bẩm sinh của tim cũng có thể gây vấn đề lâu dài cho sức khoẻ hoặc dẫn đến tử vong.
 
1- Cơn đau tim (heart attack)
 
 
     
 
Cơn đau tim xẩy ra khi dòng máu chạy tới tim bị nghẹt (thường ra bởi cục đông máu) làm tổn hại cơ tim. Nguyên nhân thông thường là các thành động mạch bị cứng ( bệnh vữa xơ động mạch- atherosclerosis). Cục đông máu thường sinh ra do mảng (plaque) trong động mạch bị vỡ hay bị rách (đôi khi đươc gọi là chứng huyết khối -thrombosis). Nếu dòng máu bị nghẹt quá lâu, các tế bào cơ tim sẽ bị tổn thương không thể phục hồi nên dẫn đến tật nguyền hay tử vong.
 
 
Chứng vữa xơ động mạch  (atherosclerosis)  Hình trên: động mach bình thường  Hình dưới: động mạch bị hẹp lại vì có mảng đóng trên thành
 
Cơn đau tim –còn được gọi là nhồi máu cơ tim (myocardial infarction)---cũng có thể xẩy ra khi động mạch vành bị co lại tạm thời hay bị co thắt (spasm) làm giảm hay đứt đoạn dòng máu chạy tới tim
Dưới đây là ba triệu chứng chính của cơn đau tim:
 -áp lực hoặc đau giữa ngực, kéo dài chừng vài phút hoặc biến mất rồi lại trở lại               -đau truyền tới vai, c𓁅 hoặc tay                                                                                                    - khó chịu ở ngực kèm thheo chóng mặt, hoa mắt, đổ mồ hôi, buồn nôn hay thở đứt đoạn
Các triệu chứng mỗi người mỗi khác, nặng nhẹ khác nhau. Có người chẳng thấy triệu chứng gì
Đối với phu nữ các triệu chứng có thể khác và không rõ rệt như đối với đàn ông.  Khi lên cơn đau tim, các phụ nữ còn có thể thấy những triệu chứng khác như
 -đau bụng hay ợ nóng (heartburn)                                                                                               -da vã mồ hôi (clammy skin)                                                                                                       -chóng mặt hay hoa mắt choáng váng                                                                                       - mệt mỏi bất bình thường hoặc không có lý do
 
2- Đột quỵ  (stroke)
Có hai loại đột quỵ: một loại do cục đông máu làm tắc động mach não, một loại xẩy ra khi mạch máu não bị bể. Trong cả hai trường hợp thì não sẽ thiếu oxigen và do đó các tế bào não sẽ bị tổn thương hay hủy diệt
 
 
80% đột quỵ là do cục đông máu làm nghẹt mạch máu não còn 20% là do mạch máu não bị bể
Người bị đột quỵ thường có khó khăn khi nói, đi lại và làm những công việc cơ bản khác. Ăn uống lành mạnh, bỏ hút thuốc, và bớt uống rượu có thể giảm rủi ro bị đột quỵ xuống phân nửa. Người có rủi ro cao nên uống aspirin
Các triệu chứng của đột quỵ thường xẩy ra đột ngột và cùng một lúc có thể có nhiều triệu chứng                                                                                                                                                       - đột ngột bị tê, yếu hay liệt ở mặt, tay hay chân ( thông thường một bên người)                  - đột ngột nói khó khăn hay không hiểu người ta nói (mất ngôn ngữ- aphasia)                     - đột ngột mắt bị mờ, nhìn thấy hai hình hay mắt yếu đi                                                            - đột ngột choáng váng, mmất thăng bằng và mất phối hợp                                                       - đột ngột bị nhức đầu như búa bổ hoặc nhức đầu bất bình thường đôi khi có                                kèm theo cổ cứng đơ, mặt bị đau, đau giữa hai mắt                                           - bị lẫn hoặc có vấn đề về trí nhớ, định hướng hay nhận thức
Đối với hầu hết mọi người, đột quỵ tới không báo trước.Nhưng cũng có khi có dấu hiệu báo trước : đó là cơn đột quỵ nhỏ do thiếu máu cục bộ đoản kỳ (transient ischemic attack- TIA) . Dòng máu chảy tới một phần não ngưng tạm thời trong một khoảng khắc mà thôi
 
3- Trụy tim (heart failure)
 
 
 
Trụy tim không có nghĩa là tim ngưng đập mà chỉ là tim bơm máu không đủ mang lại oxigen và các chất dinh dưỡng cho cơ thể. Nguyên do là các động mạch bị nghẹt vì cơn đau tim bệnh nhân đã có từ trước gây tổn thương cho cơ tim hoặc vì khuyết tật bẩm sinh của tim. Cao huyết áp, bệnh van tim hay cơ tim, hoặc tim hay van tim  bị nhiễm khuẩn cũng có thể là nguyên nhân.
Máu bị dồn lại ở tĩnh mạch làm bàn chân, cổ chân và cẳng chân sưng lên mà ta gọi là phù (edema).Chất lỏng cũng có thể tụ trong phổi và nếu tụ nhiều quá sẽ sinh bệnh xung huyết phổi (pulmonary congestion)
Hậu qủa là bệnh nhân có hơi thể đứt đoạn nhất là khi nằm, mệt mỏi và đuối sức, phù nơi bàn chân, cổ chân và bắp chân, lên cân vì chất lỏng tụ trong cơ thể , bị lẫn và trí óc không minh mẫn.
 
4- Bệnh đau thắt (angina)
Bệnh đau thắt gây cảm giác đau đớn,  đè nặng, bó thắt, nóng ran hay nén ép trong lồng ngực. Bệnh này là triệu chứng của bệnh tim và là dấu hiệu báo trước bệnh nhân có nguy cơ bị lên cơn đau tim.
 
 
 
Động mạch vành bi thu hẹp nên dòng máu chạy tới cơ tim không đủ và có thể làm  đau thắt ngực
Bệnh đau thắt xẩy ra khi bệnh xơ cứng động mạch ( arteriosclerosis) đã thu hẹp quá nhiều các động mạch vành của tim đến nỗi máu không đươc cung cấp đủ cho cơ tim khi bệnh nhân vận động hoặc tập thể dục. Chứng đau thắt có thể lan rộng sang tay, cổ, quai hàm,  mặt,  lưng hoặc dạ dày. Đối với một số bệnh nhân thì bệnh cứ âm ỉ và kéo dài.
Thường ra bệnh xuất hiện khi bệnh nhân dùng tới sức lực, bị cảm xúc  hoặc nhiệt độ quá cao làm cho  sự đòi hỏi oxigen của tim vượt quá khả năng cung cấp.
Bệnh đau thắt ở ngực có thể xẩy ra.khi bệnh nhân tuy đang nghỉ ngơi nhưng động mạch vành của tim co thắt lại.
 
5- Bệnh cao huyết áp (high blood pressure)
 
 
 
 
Cao huyết áp tăng nguy cơ bị lên cơn đau tim, đột quỵ, suy thận,  tổn thương mắt , trụy tim vì xung huyết (congestional heart failure) và vữa xơ động mạch. Bệnh làm cho tim và các động mạch phải làm việc nhiều hơn nên rủi ro bị tổn thương tăng. Khi tim phài làm việc nhiều hơn bình thường một cách lâu dài thì tim sẽ lớn to ra và yếu đi. Các động mạch cũng bị ảnh hưởng như bị sẹo, cứng lại và kém đàn hồi.
Bệnh không có dấu hiệu gì bên ngoài nên nhiều người bị lâu mà không biết. Nếu cao huyết áp có kèm theo bệnh mập phì, hút thuốc, cholesterol cao hay tiểu đường thì rủi ro bị đột quỵ hay lên cơn đau tim cao gấp nhiều lần
 
6- Bệnh cứng động mach (hardened arteries disease)
Khi các tế bào, mỡ, cholesterol và những chất khác tích tụ thành mảng (plaque) trong các động mạch thì dòng máu sẽ bị nghẽn không chảy đươc vào tim và não. Sự lắng đọng các mảng trên thành trong của động mach làm cho động mach cứng lại (bệnh vữa xơ động mạch- atherosclerosis). Ngoài ra sự lắng đọng này có thể kích thích các tế bào của thành động mạch tiết ra những chất làm cho thành động mạch dày thêm. Mặt khác mỡ tụ quanh và bên trong các tế bào này cũng gây nghẹt cho dòng máu (chứng hẹp- stenosis). Hơn nữa cục đông máu cũng có thể đươc tạo thành và làm nghẽn đông mạch hoàn toàn.
Thường ra các động mach ở chân , bụng, và gần chậu hông là dể bị cứng nhất. Dấu hiệu ban đầu là đau cơ bắp chân, đùi, mông khi đi lại hoặc khi tập thể dục. Nếu bệnh nặng, chứng đau trở thành liên tục, làm mất ngủ. Vì các động mạch bị thu hẹp nên tim thiếu máư và do đó có thể sinh ra bệnh đau thắt (angina) hay lên cơn đau tim. Trong trường hợp động mạch cổ bị nghẹt thì đột quỵ có thể xẩy ra
 
 
                Mức cholesterol cao có thể gây chứng vữa xơ động mạch (atherosclerosis)
Bệnh phát triển chậm và dần dần.Bệnh có thể xẩy ra ngay từ khi bệnh nhân còn nhỏ. Nguyên do tại sao thì chưa biết rõ nhưng có thể là do cholesterol vả triglyceride trong máu cao, huyếp áp cao và hút thuốc.
 
 
 
 
7- Bệnh loạn nhịp tim ( disturbed heart rhythm disease)
 
 
 
Bệnh loạn nhịp tim (arrhythmia) xẩy ra khi các xung điện điều hợp nhịp đập của timkhông hoạt động tốt làm cho tim đập quá nhanh, quá chậm hay không đều
Nhịp tim bình thường nằm trong khoảng từ 60 tới 100 nhịp mỗi phút cho một người lớn đang nghỉ ngơi. Nếu nhip tim quá chậm (bradycardia) tức là dưới 60 nhịp/phút thì có thễ gây mệt mỏi, choáng váng , chóng mặt hay khó chịu. Nhịp tim quá nhanh (tachycardia) có thề làm đánh trống ngực (palpitations), choáng váng và khó chịu
..
8- Bệnh cơ tim ( heart muscle disease)
 
 
Có nhiều loại bệnh cơ tim, nhưng tất cả đều có thể làm bệnh nhân lên cơn đau tim. Bênh cơ tim phì đại ( hypertrophic cardiomyopathy) là bệnh cơ tim thông thường nhất và gây nhiều tử vong nhất cho các bệnh nhân dưới 30 tuổi, Nguyên nhân bệnh này là do di truyền.
Dấu hiệu báo trước bệnh cơ tim là đột nhiên bất tỉnh, đánh trống ngực (palpitations), đau thắt (angina) và ngộp thở
Bệnh không có nguyên do đặc biệt, nhưng trong một số trường hợp thì có thể là do cao huyết áp, bệnh van tim, bệnh động mạch hay khuyết tật bẩm sinh của tim.
 
9- Bệnh van tim (heart valve disease)
 
 
Bệnh van tin thường phát triển theo thời gian nên hay xẩy ra cho những ngưới 60 tuổi trở lên. Tuy nhiên đôi khi do nhiễm khuẩn, van tim có thể bị hủy hoại trong vòng vài ngày.
Bệnh van tim thông thường là bệnh bẩm sinh, đứa bé khi mới sanh ra đã có van  hai phần thay vì bình thường là ba. Van tim hao mòn dần và trở thành quá mỏng tới độ phải thay thế.
Trước đây bệnh thấp khớp cấp (rheumatic fever) là nguyên nhân chính nhưng nay rất hiếm. Bệnh nhiễm khuẩn cấp tính ( bệnh viêm màng trong tim- endocarditis) vẫn còn là nguyên nhân thông thường nhất. Đôi khi bệnh viêm này chỉ là hậu quả của một áp-se răng  ( tooth abscess) và van tim bị vi khuẩn hủy hoại trong vòng một tuẩn lễ,
Nếu một hay nhiều hơn trong số bốn van tim bị bệnh hay bị tổn thương thì dòng máu sẽ bị ảnh hưởng vì hoặc van không mở hoàn toàn hoặc van đóng không kín.Trong cả hai trường hợp tim phải làm việc nhiều hơn.
Các triệu chứng là mệt mỏi hoặc tức thở khi tập thể dục, sưng cổ chân và bắp chân, choáng váng hay khó chịu. Bệnh đau thắt cũng có thể xẩy ra
 
10- Khuyết tật bẩm sinh của tim ( congenital heart defects)
 
 
 
Khuyết tật bẩm sinh của tim xẩy ra cho khoảng một phẩn trăm trẻ sơ sanh và là hậu quả của sự phát triển không bình thường của bào thai, đôi khi vì người mẹ bị nhiễm vi-rút khi có bầu ( bệnh sởi chẳng hạn). Rượu, ma túy, và các thuốc bán không cần toa bác sĩ cũng có thể là nguyên nhân.
Khuyết tật bẩm sinh của tim có thể là lỗ hổng giữa các tâm thất, đường dẩn máu từ tim tới phổi bị tắc hoặc mối nối giữa các tâm thất và mạch máu không đươc bình thường. Bệnh tim thổi (heart murmur) cũng có thể do khuyết tật bẩm sinh của tim
 
Ghi chú
Danh từ xơ cứng động mạch (arteriosclerosis) dùng để chỉ chung bệnh cứng (mất   đàn hổi ) của các động mạch lớn và trung bình,còn bệnh xơ cứng các đng mach    nhỏ được gọi là xơ cứng tiu động mạch (arteriolosclerosis). Danh từ vữa xơ động mạch (atherosclerosis) cũng chỉ  bệnh xơ cứng đng mạch nhưng đc biệt gây ra     bởi  mảng vữa động mạch (atheromatous plaque).  Như vậy bệnh vữa xơ động mch cũng chỉ là mt trưng hp đc biệt của bệnh xơ cứng động mạch
 
                                              
 t

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét